Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này"


Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi
+ 27/01 – CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".

Lời Chúa: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".

*Chia Sẻ:
Qua đoạn Lời Chúa trên, chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống của mình xem coi chúng ta đã thực hiện những gì Chúa dạy cho ta chưa? Chúng ta có thực hiện những câu Lời Chúa mà ta cho là đã ứng nghiệm trong cuộc sống ta chưa? Và chúng ta phải luôn nhớ rằng: Mỗi ngày khi chúng ta đọc và suy ngẫm Lời Chúa thì chúng ta phải luôn dọn sẵn lòng mình để Chúa đến và chỉ bảo cho chúng ta những việc chúng ta cần phải làm để giúp cho cuộc sống vật chất cũng như đời sống tâm linh của chúng ta được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa.

Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống"


Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể. Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt. Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống.  Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Thánh Stêphanô, Hungari (975-1038)


Thánh Stêphanô, Hungari (975-1038).
Thánh Stêphanô sinh khoảng năm 975 và được chịu Phép Rửa năm 985. Ngài lên kế vị vua cha vào năm 997. Triều đại ngài kéo dài được 42 năm. Sau khi lên ngôi được 3 năm, Ðức Giáo Hoàng Sylvestre II đã phong vương cho ngài với tước hiệu là "một vị vua truyền giáo của nước Hung Gia Lợi", vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1000. Thân hình tuy nhỏ bé nhưng tấm lòng quảng đại bao la, ngài là một nhà tiên đoán thời cuộc, một vị thủ lãnh đầy năng lực, một chiến sĩ nhiệt thành và can đảm. Ngài đã xây dựng quốc gia với đôi bàn tay vững chắc và đã tổ chức Giáo Hội thấm nhiễm đức tin trên đất nước ngài: ngài đã thiết lập các địa phận, xây các thánh đường nguy nga đồ sộ. Ngài qua đời vào ngày lễ kính Ðức Mẹ và người ta thường gọi đó là ngày lên Trời của nước Hung Gia Lợi.

"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy"


SUY NIỆM : Tha thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ


ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Ngày hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Ðức Mẹ lên Trời, chúng ta chúc tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Ngay từ giây phút đầu tiên, Mẹ đã được ấp ủ giữ gìn, không vương chút tội truyền, xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa, và khi cuộc sống ở trần gian này chấm dứt, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác để hưởng ánh vinh quang bất diệt.
Ðặc ân lên Trời do hậu quả của tước vị Mẹ Thiên Chúa: Thiên Chúa đã bảo toàn thân xác Mẹ, thân xác đã cưu mang Con Một Ngài và đã sinh Ðấng ban sự sống. Ðó không những chỉ là một đặc ân cho riêng Mẹ mà còn cho toàn thế giới, vì một ngày kia,nhân loại trong Thiên Chúa cũng sẽ được về Trời. Dưới mắt thánh Gioan, hình ảnh một người nữ huy hoàng xuất hiện trên bầu trời chính là hình ảnh của Ðức Mẹ cũng như của Giáo Hội. Mẹ là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Mẹ hướng dẫn và nâng đỡ niềm hy vọng của cộng đoàn dân Chúa đang tiến bước. Chiêm ngắm Mẹ thông phần vào cuộc khải hoàn và thống trị cùng với Chúa Giêsu, chúng ta ao ước những sự kiện trên Trời, và chúng ta hãy nguyện cầu Thiên Chúa, nhờ lời bầu cử của Mẹ, cho chúng ta cũng được lên Trời vinh hiển với Mẹ. Chúng ta biết rằng, cũng như Mẹ, chúng ta mang trong thân xác yếu hèn của chúng ta hạt giống của cuộc sống vĩnh cửu.

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này"


Thánh Mácximilianô Maria Kônbê.
Ngài chào đời vào ngày 7 thánh giêng năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Balan. bố mẹ đặt tên là Raymond. Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phan sinh và lấy tên là tu huynh Maximilien. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, Ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Năm 1927, Kolbe thành lập hội ”thành đô Đức Mẹ vô nhiễm”. Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác. Trở về Ba Lan năm 1936, cha phải chịu nhiều cuộc bách hại của Gestapo (mật thám Đức Quốc xã). Ngày 17 tháng 2 năm 1941, Maximiline bị bắt và giam vào trại Auschwitz, với số hiệu tù nhân: 16670. Vào tháng 7 năm 1941, nhân một người tù trốn trại, mười người trong số còn lại bị án tử hình. Maximiline Kolbe đã tình nguyện chết cho một người tù, anh này đã có gia đình. Ngày 14 tháng 8 năm 1941, Đức Quốc xã đã kết thúc đời Ngài bằng một mũi thuốc độc, năm Ngài được bốn mươi bảy tuổi.
Đức Thánh Cha Phaolô VI phong chân phước cho Ngài vào năm 1971. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh vào năm 1982.
SUY NIỆM: Còn tình nào cao quý hơn
Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.
Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: "Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi". Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh...
Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp vàsâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác...
Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại...".
Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã...
Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
"Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình...
Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế"


Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.