Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống"


Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể. Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt. Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống.  Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Thánh Stêphanô, Hungari (975-1038)


Thánh Stêphanô, Hungari (975-1038).
Thánh Stêphanô sinh khoảng năm 975 và được chịu Phép Rửa năm 985. Ngài lên kế vị vua cha vào năm 997. Triều đại ngài kéo dài được 42 năm. Sau khi lên ngôi được 3 năm, Ðức Giáo Hoàng Sylvestre II đã phong vương cho ngài với tước hiệu là "một vị vua truyền giáo của nước Hung Gia Lợi", vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1000. Thân hình tuy nhỏ bé nhưng tấm lòng quảng đại bao la, ngài là một nhà tiên đoán thời cuộc, một vị thủ lãnh đầy năng lực, một chiến sĩ nhiệt thành và can đảm. Ngài đã xây dựng quốc gia với đôi bàn tay vững chắc và đã tổ chức Giáo Hội thấm nhiễm đức tin trên đất nước ngài: ngài đã thiết lập các địa phận, xây các thánh đường nguy nga đồ sộ. Ngài qua đời vào ngày lễ kính Ðức Mẹ và người ta thường gọi đó là ngày lên Trời của nước Hung Gia Lợi.

"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy"


SUY NIỆM : Tha thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ


ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Ngày hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Ðức Mẹ lên Trời, chúng ta chúc tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Ngay từ giây phút đầu tiên, Mẹ đã được ấp ủ giữ gìn, không vương chút tội truyền, xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa, và khi cuộc sống ở trần gian này chấm dứt, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác để hưởng ánh vinh quang bất diệt.
Ðặc ân lên Trời do hậu quả của tước vị Mẹ Thiên Chúa: Thiên Chúa đã bảo toàn thân xác Mẹ, thân xác đã cưu mang Con Một Ngài và đã sinh Ðấng ban sự sống. Ðó không những chỉ là một đặc ân cho riêng Mẹ mà còn cho toàn thế giới, vì một ngày kia,nhân loại trong Thiên Chúa cũng sẽ được về Trời. Dưới mắt thánh Gioan, hình ảnh một người nữ huy hoàng xuất hiện trên bầu trời chính là hình ảnh của Ðức Mẹ cũng như của Giáo Hội. Mẹ là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Mẹ hướng dẫn và nâng đỡ niềm hy vọng của cộng đoàn dân Chúa đang tiến bước. Chiêm ngắm Mẹ thông phần vào cuộc khải hoàn và thống trị cùng với Chúa Giêsu, chúng ta ao ước những sự kiện trên Trời, và chúng ta hãy nguyện cầu Thiên Chúa, nhờ lời bầu cử của Mẹ, cho chúng ta cũng được lên Trời vinh hiển với Mẹ. Chúng ta biết rằng, cũng như Mẹ, chúng ta mang trong thân xác yếu hèn của chúng ta hạt giống của cuộc sống vĩnh cửu.

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này"


Thánh Mácximilianô Maria Kônbê.
Ngài chào đời vào ngày 7 thánh giêng năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Balan. bố mẹ đặt tên là Raymond. Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phan sinh và lấy tên là tu huynh Maximilien. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, Ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Năm 1927, Kolbe thành lập hội ”thành đô Đức Mẹ vô nhiễm”. Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác. Trở về Ba Lan năm 1936, cha phải chịu nhiều cuộc bách hại của Gestapo (mật thám Đức Quốc xã). Ngày 17 tháng 2 năm 1941, Maximiline bị bắt và giam vào trại Auschwitz, với số hiệu tù nhân: 16670. Vào tháng 7 năm 1941, nhân một người tù trốn trại, mười người trong số còn lại bị án tử hình. Maximiline Kolbe đã tình nguyện chết cho một người tù, anh này đã có gia đình. Ngày 14 tháng 8 năm 1941, Đức Quốc xã đã kết thúc đời Ngài bằng một mũi thuốc độc, năm Ngài được bốn mươi bảy tuổi.
Đức Thánh Cha Phaolô VI phong chân phước cho Ngài vào năm 1971. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh vào năm 1982.
SUY NIỆM: Còn tình nào cao quý hơn
Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.
Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: "Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi". Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh...
Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp vàsâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác...
Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại...".
Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã...
Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
"Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình...
Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế"


Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được"


Thứ bảy 11/08/2012 – Thứ bảy. Thánh Cơlara, trinh nữ. Lễ nhớ. – Cô bạn của Thánh Phanxicô Assisi

SUY NIỆM: Lòng tin thật
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống qủy này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện].(Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
Suy niệm: Thánh Clara
Với một đời sống luôn lấy Chúa làm cùng đích, thánh nữ Clara đã luôn tâm niệm:” Tất cả cho Chúa, tất cả vì phần rỗi các linh hồn”. Thánh nhân đã sống đời sống thánh thiện và muốn các chị em Dòng mình nên thánh và thánh nữ sau một cuộc đời tận tụy đã ra đi về với Chúa bình an ngày 11 tháng 8 năm 1253 trước sự thương tiếc của mọi người. Năm 1255, Đức Tháh Cha Alexandre IV đã đặt Ngài  lên hàng các thánh đồng trinh. Ngài đúng là:” Người trinh nữ khôn ngoan đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất đi”( Lc 10, 42 ).

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh Clara và soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời sống khó nghèo. Xin nhận lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con được cùng người sống tinh thần nghèo khó và theo chân Đức Kitô để được vào nước trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa ( lời nguyện)

"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó"


Thứ sáu 10/08/2012 – Thứ sáu. THÁNH LÔRENXÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. lễ kính – Tài sản của Giáo Hội

Chúa Giêsu là Thầy, Người đã thực hiện trọn vẹn vai trò người thầy bằng chính sự nhập thể và cái chết của mình. Lời giảng về hạt lúa phải gieo vào lòng đất, chịu mục nát đi mới sinh hoa kết quả trước tiên áp dụng cho Người. Thầy Giêsu đã sống điều Thầy dạy. Gương mẫu của Thầy Giêsu đã thu hút thánh Lôrenxô hiến thân phục vụ đến độ trở nên giống như Thầy, chịu mục nát đi như hạt lúa gieo vào lòng đất qua cái chết tử đạo của mình. Đúng như lời Chúa hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”, thánh Lôrenxô phó tế tử đạo được Chúa Cha trọng thưởng và cho ở bên Thầy Giêsu trong vinh quang nước trời.

SUY NIỆM: Thánh Laurensô (+258)

Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Người nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt. Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

"Này bà, bà có lòng mạnh tin"


Thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này không được đáng mền. Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc kinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy"


Chúa đi trên biển
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.

SUY NIỆM:
Hành trình sống đạo của người Kitô hữu là hành trình đức tin, giống như chiếc thuyền trên biển. Trước những khó khăn, đau khổ trong cuộc sống, mỗi người cũng dễ có thái độ như Phêrô và các tông đồ: sợ hãi, nghi ngờ, than trách, kêu than, không tin Chúa. Lời Chúa nói với Phêrô cũng là Lời Chúa nói với mỗi người: "Tại sao con lại nghi ngờ?"
Lạy chúa, nhiều lần Chúa đã nói với chúng con như đã nói với Phêrô. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con vững tin vào Chúa, trước phong ba bão táp của cuộc đời trần thế.
Ðừng sợ
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Ðấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người "Ðừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu"


Thứ bảy 04/08/2012 – Thứ bảy đầu tháng. Thánh Gioan Maria Vianê. – Sức mạnh của Thiên Chúa
Sức mạnh của Thiên Chúa
04/08 – Thứ bảy đầu tháng. Thánh Gioan Maria Vianê.
"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu"
Chúng ta hãy đặt hết niềm tin của chúng ta vào Thiến Chúa vì chính niềm tin ấy là sức mạnh mà Chúa giành cho chúng ta để bước qua mọi sự.
SUY NIỆM: Sức mạnh của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.